Thứ Tư, 8 tháng 8, 2018

Vận Động Viên : Đằng sau tấm huy chương là nước mắt bội bạc

[ NGHỀ CỦA TÔI ]

Vận Động Viên : Đằng sau tấm huy chương là nước mắt bội bạc

Khi từ giã sự nghiệp người may mắn được đi học, giữ lại làm Huấn luyện viên, người không may phải làm lại từ đầu, sống lay lắt bằng đủ nghề để mưu sinh khi dâng hiến cả những tháng năm tuổi trẻ cho đam mê và khát vọng.

Khi viết nên những dòng này tôi vẫn luôn khắc hoải về một câu hỏi, những việc mình đang làm có được định danh là một nghề.
Đó chính là nghề võ – Nghề vận động viên (VĐV).

Tôi tạm gọi đó là nghề vì nó là một nghề của bao cảm xúc thăng hoa, vui vẻ, hạnh phúc, giằng xé và đau đớn.

Đối với những người thất bại trong đời vận động viên, họ cảm thấy mặn chát và bạc bẽo, nó ví như một quả chanh bị vắt kiệt nước và thải ra một đống bã. Nghề của tôi đầy những tháng ngày dầm mưa dãi nắng,với những giọt mồ hôi lăn dài trên gò má và những vết loang lổ đen xạm của những cô gái xuân thì khi tuổi đời chưa tròn 20.

Chúng tôi thường nói với  nhau rằng, nghề VĐV là nghề của đam mê và nhiệt huyết, thấm đẫm nước mắt và những nỗi đau về thể xác, những đôi chân bầm tím vì các đòn tấn công, cũng như sự đau đớn khi gặp phải chấn thương phải nằm viện điều trị và chờ tháng ngày dài đằng đẵng để mổ, vì với môn Võ chấn thương là người bạn đồng hành và không thể tránh khỏi trong đời VĐV.

Nghề của tôi có những mặt trái sau những giây phút thăng hoa của niềm vui chiến thắng, cũng là sự sắp xếp tính toán và “xin cho” của các huấn luyện viên, có những vận động viên từng đã phải bỏ cuộc cũng chỉ vì thầy của mình đã trót hứa “thả” trận đấu đó, mọi thứ thật tức tưởi và khó chấp nhận, vì vận động viên lúc ấy là quân cờ và công cụ để huấn luyện viên của mình đạt được mục đích cá nhân.

Đó là một góc tiêu cực khiến cho nghề của chúng tôi thêm phần đen tối, mất đi tính trung thực và cao thượng trong thể thao. Chúng tôi - những người làm nghề dù muốn dù không phải sống với nó và chấp nhận nó như lẽ tất yếu của cuộc chơi.

Có những vất vả để đến với chiến thắng mà chỉ những người đang sống cùng đam mê mới thấu hiểu, những lần ép cân để đánh hạng thấp hơn. Để ép cân, chúng tôi phải nhịn ăn hoặc ăn rất ít. Đôi chân bủn rủn, đôi mắt thâm quầng và hoa lên vì đói, lồng ngực phập phồng vì thở dốc.

Những ngày hè phải mặc áo mưa ra đường, chạy như thể bị ma đuổi, người bình thường nghĩ rằng chúng tôi điên khi trời nắng oi ả, lại mặc đồ mưa chạy như những kẻ tâm thần. Có những lúc cảm giác như ngã quỵ không thể đứng vững, có những VĐV thậm chí trước lúc cân và kiểm tra sức khỏe còn bị ngất lịm và bất tỉnh cần đến sự can thiệp của bác sỹ,

Thậm chí, có những VĐV lười biếng ép cân muốn ép thần tốc để xuống cân uống thuốc lợi tiểu và trong một đêm cân nặng đã sút nhưng không đứng dậy nổi vì mất quá nhiều nước buộc phải nhập viện. Hậu trường của những tháng ngày tập huấn, tập ngày tập đêm làm cho chúng tôi hao tổn về thể xác và kiệt quệ về tinh thần.

Thế nhưng, cứ nghĩ tới ngày mình sẽ được chạm tay vào tấm huy chương quý giá, mọi mệt mỏi tan biến và chúng tôi lại mơ về một giấc mơ vàng.

Tôi cũng đã từng thành công trong nghề của mình, và cũng nếm trải biết bao nhiêu gian truân trắc trở để đến được với thể thao thành tích cao, tôi vẫn còn mang nặng một nỗi niềm canh cánh trong lòng.

Đã bao nhiêu thế hệ Vận động viên đàn anh đàn chị, và thế hệ sau này, thi đấu cống hiến cho vinh quang cho đất nước, đồi lại khi từ giã sự nghiệp người may mắn được đi học, giữ lại làm huấn luyện viên, người không may phải làm lại từ đầu, sống lay lắt bằng đủ nghề để mưu sinh khi dâng hiến cả những tháng năm tuổi trẻ cho đam mê và khát vọng.

Đối với họ để có được những tấm huy chương họ phải đánh đổi bằng những giọt nước mắt, mồ hôi và không ít lần phải đổ máu để đổi lại ngày chia tay họ nhận được một con số 0 tròn trĩnh

Cuộc đời là vậy nghề của chúng tôi là nghề “bạc” chỉ được vẻ hào nhoáng bên ngoài bao người tung hô rồi đi vào lãng quên và biến mất như bóng đen vật vờ trong cuộc đời

Khi tôi chấp bút viết lên nghề của những người theo thể thao, tôi đồng cảm sẻ chia và thấu hiểu sâu sắc rằng, đam mê và nhiệt huyết chỉ là mạch nguồn sống, còn thực tế cơm, áo, gạo tiền, khiến cho chúng tôi phải bước đi, như câu hát vang mãi trong tim chúng ta mỗi khi bước lên bục vinh quang, đó chính là niềm tin chiến thắng vào một ngày mai tươi sáng.

Tác giả : Nguyễn Thị Thảo

Thứ Tư, 28 tháng 12, 2016

NGUỒN GÓC XUẤT XỨ KARATE-DO

Karate (空手, からて) hay Karate-Do (空手道, からてどう)-(Hán Việt: Không Thủ Đạo) là một môn võ thuật truyền thống của vùng Okinawa (Nhật Bản). Karate có tiếng là nghệ thuật chiến đấu với các đòn đặc trưng như đấm, đá, cú đánh cùi chỏ, đầu gối và các kỹ thuật đánh bằng bàn tay mở. Trong Karate còn có các kỹ thuật đấm móc, các kỹ thuật đấm đá liên hoàn, các đòn khóa, chặn, né, quật ngã và những miếng đánh vào chỗ hiểm. Để tăng sức cho các động tác tấn đỡ, Karate sử dụng kỹ thuật xoay hông hay kỹ thuật kime, để tập trung lực năng lượng toàn cơ thể vào thời điểm tác động của cú đánh.

Xuất xứ tên gọi "Karate - 空手"

Trước đây, khi mới chỉ giới hạn ở Okinawa, môn võ này được gọi là Totei theo ngôn ngữ ở đây, và được viết là 唐手. Vào thời kỳ Minh Trị, môn võ này bắt đầu được truyền vào lãnh thổ chính của Nhật Bản, thì chữ 唐手 được phát âm theo tiếng Nhật là Karate và giữ nguyên cách viết này. Tuy nhiên, do 唐手 thường bị hiểu không đúng là "võ Tàu", cộng thêm việc môn võ này thường chỉ dùng tay không để chiến đấu, nên người Nhật bắt đầu từ thay thế chữ 唐 bằng một chữ khác có cùng cách phát âm và mang nghĩa "KHÔNG", đó là 空. Tên gọi Karate và cách viết 空手 bắt đầu như vậy từ thập niên 1960. Giống như nhiều môn khác ở Nhật Bản (Trà đạo, Thư đạo,Cung đạoKiếm đạoCôn đạoHoa đạo...), karate được gắn thêm vĩ tố "Đạo", phát âm trong tiếng Nhật là "DO" (viết là 道). Vì thế, có tên Karate-Do.Phần đa người tập karate đều hướng tới chữ "Do" này đều muốn học trò của mình có đạo đức nhân cách.

Lịch sử hình thành[sửa | sửa mã nguồn]

Những nghiên cứu gần đây cho thấy Karate được phát triển trên cơ sở tổng hợp các phương thức chiến đấu của người Ryukyu với các môn võ thuật ở phía Nam Trung Quốcnhằm chống lại ách đô hộ hà khắc mà giới cai trị Nhật Bản áp đặt lên dân bản xứ bấy giờ. Tuy nhiên, xuất xứ chính xác của môn võ này còn chưa được xác định, bởi không tìm được thư tịch cổ nào của Vương quốc Lưu Cầu xưa ghi chép về môn võ này. Người ta chỉ có thể đưa ra được những giả thiết về nguồn gốc của Karate.
  • Xuất phát từ các điệu múa vùng nông thôn Lưu Cầu, một môn võ (người Ryukyu gọi là dei và viết bằng chữ Hán 手) hình thành và phát triển thành Todei (唐手). Đây là giả thiết do Asato Anko đưa ra.
  • Do tập đoàn người Hoa từ Phúc Kiến di cư sang Okinawa và định cư tại thôn Kuninda ở Naha và truyền các môn võ thuật Trung Quốc tới đây. Vì thế mà có tên gọi là tote (唐手) với chữ to (唐 - Đường) chỉ Trung Quốc, còn t (手 - Thủ) nghĩa là "võ", tức các môn võ thuật có gốc từ Trung Hoa.
  • Theo con đường thương mại tới Okinawa. Vương quốc Lưu Cầu xưa có quan hệ thương mại rộng rãi với Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á. Các môn võ thuật có thể từ các miền đất này theo các thuyền buôn và truyền tới Okinawa.
  • Bắt nguồn từ môn vật của Okinawa có tên là shima.

Phương pháp luyện tập[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Kata, Karate
Bài chi tiết: Kumite, Karate
Việc tập luyện Karate hiện đại được chia làm ba phần chính: kỹ thuật cơ bản ("Kihon" theo tiếng Nhật), Quyền ("Kata") và tập luyện giao đấu ("Kumite")
Kỹ thuật cơ bản (Kihon) (基本) được tập luyện từ các kỹ thuật cơ bản (kỹ thuật đấm, động tác chân, các thế tấn), thân pháp, nhãn pháp, hơi thở trong từng kĩ thuật của môn võ. Đây là thể hiện "mặt chung" của môn võ mà phần lớn mọi người thừa nhận, ví dụ những bước thực hành đòn đấm.
Kata (型) nghĩa là "bài quyền" hay "khuôn mẫu" "bài hình", tuy nhiên nó không phải là các động tác múa. Các bài kata chính là các bài mẫu vận động và chiêu thức thể hiện các nguyên lý chiến đấu trong thực tế. Kata có thể là chuỗi các hành động cố định hoặc di chuyển nhằm vào các kiểu tấn công và phòng thủ khác nhau. Mục đích của kata là hệ thống hóa lại các đòn thế cho dễ nhớ dễ thuộc và những bài kata đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp tùy theo trình độ của môn sinh, mỗi hệ phái karate-do lại có một kĩ thuật khác nhau vì thế mà trong luật thi đấu của liên đoàn karate thế giới phải tuân theo kĩ thuật của 4 hệ phái lớn.

Các lưu phái Karate[sửa | sửa mã nguồn]

Karate có nhiều lưu phái. Giữa các lưu phái có sự khác nhau ít nhiều về bài quyền, phương pháp huấn luyện, quy cách thi đấu. Trước hết, Karate chia thành Karate truyền thống và Full Contact Karate.

Karate truyền thống[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Karate truyền thống
Karate truyền thống theo nghĩa hẹp gồm các lưu phái tuân theo quy tắc sundome (寸止め). Quy tắc sundome tức là chấp hành cách đánh khi thi đấu phải giữ cự ly nhất định củađòn đánh vào đối phương hoặc giữ sức mạnh đòn đánh ở mức độ nhất định. Karate truyền thống theo nghĩa rộng chỉ tất cả các lưu phái, tổ chức tham gia Liên minh Karatedo Toàn Nhật Bản (trong nước Nhật) và Liên minh Karatedo Thế giới (quốc tế).
Karate truyền thống có một số đặc trưng sau:
  • Coi trọng lễ tiết, triết học
  • Các bài quyền (kata) theo lối cổ điển
  • Phương pháp luyện tập sử dụng nhiều phương pháp từ xưa để lại
  • Ít tổ chức thi đấu
  • Sử dụng chế độ phong đẳng cấp dựa vào số lượng bài quyền và động tác cơ bản luyện tập được. Thời gian phong đẳng cấp khác nhau giữa các lưu phái, song nhìn chung đều lâu.
Karate truyền thống gồm các nhóm lưu phái sau:
  • Karate cổ truyền: Đây là các lưu phái karate không bị thể thao hóa hay hình thức hóa. Các lưu phái này coi trọng các kỹ thuật chiến đấu và luyện tập như nguồn gốc ở Okinawa. Đó là các hệ phái Kojou-ryū (hoặc Kogusuku-ryū theo phương ngôn Okinawa), Honbu-ryū, Shintō-ryū, v.v…
  • Karate truyền thống theo nghĩa hẹp gồm các lưu phái đi theo dòng Karate thể thao hóa nhưng áp dụng quy tắc sundome, bao gồm bốn hệ pháichính là Gōjyu-ryū, Shōtōkan-ryū, Wadō-ryū, Shitō-ryū
  • Karate Okinawa: Các lưu phái Karate có cơ sở chính ở Okinawa như Okinawa Gōjyu-ryū, Shōrin-ryū (Tiểu Lâm Lưu), Shōrin-ryū (Thiếu Lâm Lưu), Shōrinji-ryū (Thiếu Lâm Tự Lưu), Gensei-ryū, Hojo-ryū, Isshin-ryū, Makiwara, Ryu-te, Ryuei-ryū, Shuri-ryū, Shōei-ryū, v.v…

Karate hiện đại[sửa | sửa mã nguồn]

Chủ yếu phục vụ cho thi đấu thể thao gồm 2 phần KATA và KUMITE Về KATA (biểu diễn quyền) trong hơn 100 hệ phái của karate thì có 8 bài quyền bắt buộc của 4 hệ phái chính được đưa vào sử dụng, đó là các hệ phài: GOJU-RYU, WADO-RYU, SHOTOKAN, SHITO-RYU. Cụ thể 8 bài quyền bắt buộc của 4 hệ phái chính như sau: Goju: (2 bài: Seipai và Saifa) Shotokan: (2 bài: Jion và Kankudai) Shito: (2 bài: Bassaidai và Seienchin) Wado: (2 bài: Seishan và Chinto)
  • Ngoài 8 bài quyền bắt buộc 4 hệ phái này còn có các bài quyền tự chọn như sau:
GOJU-RYU có 10 bài, WADO-RYU có 10 bài,SHOTOKAN 21 bài, SHITO-RYU 43 bài.

Full Contact Karate[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Full Contact Karate
Full Contact Karate (romaji: Furu Kontakuto Karate) lại áp dụng quy tắc sử dụng đòn đánh trực tiếp vào đối phương khi thi đấu không hạn chế cường độ. Khi thi đấu có thể sử dụng hoặc không sử dụng các dụng cụ bảo vệ như mũ, áo giáp, v.v… Tuy được phân biệt với Karate truyền thống ở chỗ sử dụng quy tắc trên, song chính quy tắc đánh trực tiếp vào người đối phương không hạn chế cường độ mới là quy tắc của Karate nguyên thủy ở Okinawa. Chính vì thế, lưu phái lớn nhất trong Full Contact Karate lấy tên là Kyokushin Karate (極真カラテ hay Cực chân Karate, Karate chính cống). Full Contact Karate phổ biến ở nước ngoài nhất là Mỹ hơn là ở Nhật Bản.
Thi nâng đẳng nâng đai trong Full Contact Karate ngoài dựa vào biểu diễn các bài kata còn dựa vào kết quả đấu kumite giữa những người cùng đăng ký thi lên đẳng.
Các HỆ phái Full Contact Karate chủ yếu là:
  • Kyokushin Karate (bao gồm các phân phái nhỏ là Kyokushin Kaikan ở Nhật Bản, The World Oyama Karate Organization ở Mỹ, WKO Shinkyokushinkai, Seido Kaikan ở Nhật, Ashihara Kaikan với ảnh hưởng quan trọng tới huấn luyện võ thuật của quân đội và cảnh sát ở Nhật, v.v…). Ở phương Tây, Kyokushin Karate còn được gọi là Knock-down Karate. Các phái này cho đánh trực tiếp vào người đối phương khi thi đấu, nhưng không được đánh vào đầu.
  • Các lưu phái cho phép đánh cả vào đầu đối phương khi thi đấu bao gồm Shinkarate, Daido Juku Kudo, Zendokai, v.v…
  • Ngoài ra còn có một số môn phái Karate ở Mỹ trong đó Karate Chuyên nghiệp Toàn Mỹ mà thực chất là Karate kết hợp với các môn boxingkickboxing nên có khi gọi là Karate tổng hợp.

Đẳng cấp, màu đai và danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Chế độ đẳng cấp và màu đai của Karate là học từ Judo và bắt đầu thi hành từ năm 1924.
Ban đầu chỉ có đai đen (huyền đai) và đai trắng. Đai đen dành cho những người đã có quá trình luyện tập, còn đai trắng dành cho người mới bắt đầu. Giữa đai trắng và đai đen có từ 1 đến 3 đai nữa tùy theo từng lưu phái. Hay dùng nhất là đai màu xanh lá cây (màu trà Nhật). Ngoài ra tùy lưu phái có thể có đai vàng, đai đỏ, đai nâu, đai tím, v.v … Trong đai đen lại có khoảng 10 đẳng, thấp nhất là nhất đẳng (nhất đẳng huyền đai). Những người đạt đến trình độ ngũ đẳng huyền đai đến lục đẳng huyền đai được gọi là renshi (錬士) ngũ đẳng và renshi lục đẳng, từ thất đẳng huyền đai đến bát đẳng huyền đai được gọi là kyoshi (教士) hoặc tatsushi (達士), từ cửu đẳng huyền đai trở lên gọi là hanshi (範士). Cũng có lưu phái không sử dụng các danh hiệu này.

Trang phục[sửa | sửa mã nguồn]

Ảnh các võ sĩ Karate ngày xưa cởi trần biểu diễn và thi đấu.
Trang phục của một võ sĩ Karate ngày này.
Nguyên thủy, người luyện tập và đấu Karate cởi trần. mặc quần dài hoặc quần cộc. Ngày nay, người luyện tập Karate mặc áo màu trắng là học theo áo của môn Judo. Karate truyền thống thường mặc áo mà tay áo dài đến cổ tay, ống quần cũng dài đến cổ chân. Trong khi đó, Full Contact Karate mặc áo quần có ống tay áo và ống quần ngắn hơn.

Thay đổi trong phương pháp huấn luyện[sửa | sửa mã nguồn]

Cảnh huấn luyện Karate trong thành Shuri ở Naha.
Khác với các môn võ khác của Nhật Bản được truyền thụ bằng tài liệu, Karate vốn được truyền thụ bằng miệng (khẩu truyền) và biểu diễn mẫu. Tuy nhiên, từ thời kỳ Taisho các cao thủ Karate ở Okinawa thành lập Câu lạc bộ Đường thủ Karate để cùng nhau nghiên cứu, trao đổi về Karate, thì bắt đầu xuất hiện các tài liệu hướng dẫn tập luyện Karate.

Các điều luật lệ[sửa | sửa mã nguồn]

Theo tiếng Nhật gọi là Dojo kun, là một bộ các điều được đưa ra để các võ sinh Karate tuân theo. Những điều lệ này được áp dụng trong dojo hay còn gọi là phòng tập và trong cả cuộc sống đời thường.

Năm điều huấn thị của võ sư Funakoshi[sửa | sửa mã nguồn]

Võ sư Funakoshi Gichin (tiếng Nhật: 船越 義珍) (1868-1957) đưa ra năm điều huấn thị đối với người luyện Karate chi phái Shotokan để rèn luyện đạo đức.
  1. Nỗ lực hoàn thiện nhân cách, tiếng Nhật: ―、人格完成に努ろこと, phiên âm: Hitotsu, jinkaku kansei ni tsutomuru koto.
  2. Luôn luôn chân thành, tiếng Nhật: ―、誠の道を守ること, phiên âm: Hitotsu, makoto no michi wo mamoru koto.
  3. Nuôi dưỡng tinh thần nỗ lực, tiếng Nhật: ―、努力の精神を養うこと, phiên âm: Hitotsu, doryoku no seishin wo yashinau koto.
  4. Trọng lễ nghĩa, tiếng Nhật: ―、礼儀を重んずること, phiên âm: Hitotsu, reigi wo omonzuru koto.
  5. Kiềm chế các hành vi nóng nảy, tiếng Nhật: ―、血気の勇を戒むる, phiên âm: Hitotsu, kekki no yu wo imashimuru koto.

Hai mươi điều về Karate của sư tổ Funakoshi[sửa | sửa mã nguồn]

1. Đừng quên Karate bắt đầu bằng Lễ, kết thúc cũng bằng Lễ.
一、空手は礼に初まり礼に終ることを忘るな.
karate wa rei ni hajimari rei ni owaru koto o wasuru na.
2. Karate không nên ra đòn trước.
二, 空手に先手無し.
karate ni sen te nashi.
3. Karate phải giữ nghĩa.
三、空手は義の補け.
karate wa gi no tasuke.
4. Trước tiên phải biết mình rồi mới đến biết người.
四、先づ自己を知れ而して他を知れ.
mazu jiko o shire shikoshite hoka o shire.
5. Kỹ thuật không bằng tâm thuật.
五、技術より心術.
gijutsu yori shinjutsu.
6. Cần để tâm thoải mái.
六、心は放たん事を要す.
kokoro wa hanatan koto o yosu.
7. Khinh suất tất gặp rắc rối.
七、禍は懈怠に生ず.
wazawai wa ketai ni shozu.
8. Đừng chỉ có lúc nào ở võ đường mới nghĩ về karate.
八、道場のみの空手と思うな.
dojo no mi no karate to omou na.
9. Rèn luyện karate cả đời không nghỉ.
九、空手の修行は一生である.
karate no shugyo wa issho dearu.
10. Biến mọi thứ thành karate, như thế sẽ nắm được sự tuyệt vời của nó.
十、凡ゆるものを空手化せ其処に妙味あり.
arayuru mono o karate kasase soko ni myomi ari.
11. Karate giống như nước nóng, nếu ngừng hâm nóng thì sẽ nguội lạnh.
十一、空手は湯の如く絶えず熱を与えざれば元の水に返る.
karate wa yu no gotoku taezu netsu o ataezareba moto no mizu ni kaeru.
12. Đừng nghĩ thắng, hãy nghĩ đừng bại.
十二、勝つ考えは持つな、負けぬ考えは必要.
katsu kangae wa motsu na, makenu kangae wa hitsuyo.
13. Chuyển hóa bản thân tùy theo đối phương.
十三、敵に因って転化せよ.
teki ni yotte tenka seyo.
14. Kết quả cuộc đấu phụ thuộc vào khả năng kiểm soát.
十四、戦は虚実の操縦如何にあり.
ikusa wa kyojitsu no soju ikan ni ari.
15. Hãy nghĩ chân tay người cũng là kiếm.
十五、人の手足を劔と思え.
hito no teashi o ken to omoe.
16. Hễ ra khỏi nhà là có cả triệu địch thủ.
十六、男子門を出づれば百万の敵あり.
danshimon o izureba hyakuman no teki ari.
17. Người mới tập có thể còn gượng gạo, nhưng về sau phải thật tự nhiên.
十七、構えは初心者に、あとは自然体.
kamae wa s oshinsha ni, ato wa shizentai
18. Phải tập kata thật chuẩn, nhưng nhớ là thực chiến sẽ khác đi.
十八、型は正しく、実戦は別もの.
kata wa tadashiku, jissen wa betsu mono.
19. Nhớ kiểm soát độ mạnh yếu của lực, độ linh hoạt của cơ thể, độ nhanh chậm của đòn thế.
十九、力の強弱、体の伸縮、技の緩急を忘るな.
chikara no kyojaku, karada no shinshuku, waza no kankyu o wasuru na.
20. Luôn chính chắn khi dụng võ.
二十、常に思念工夫せよ.
tsune ni shinen kofu seyo.

Theo Wikipedia.com

Thứ Hai, 26 tháng 12, 2016

HEIAN KATA - BÀI QUYỀN BÌNH AN

Heian, tiếng Nht có nghĩa là Bình An. Phi hiu khái nim Bình An theo tinh thn Thin hc: Cõi t ti, t ch. Bình An là cái đích cui cùng ca s tu dưỡng. Đạt đến trng thái này, con người có th thu sut mi l, có th "định" dù gia sóng gió ba đào.

Bt đầu bng 5 bài Heian, phi chăng đây là li nhn gi sâu sc cho nhng ai mi tp tnh bước vào con đường Võ đạo Karate.


Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2016

QUYỀN TEWAZA - SUZUCHO KARATEDO

TEWAZA là hệ bài quyền cổ trong chuổi hệ thống các bài quyền Đặc dị của hệ phái Suzucho Karatedo do thầy Choji Suzuki sáng lập .

"Bài quyền là tác phẩm nghệ thuật phản ảnh một trận đấu  với nhiều đối thủ vô hình. Bài quyền không phải là sự sắp xếp máy móc các kỹ thuật đỡ, đâm, đánh, đá... Nắm cho được cái hồn của bài quyền, phân tích cho được sau mỗi kỹ thuật ngầm chứa điều gì, đó là công việc của người huấn luyện viên khi dạy một bài quyền, của người võ sinh khi tập một bài quyền." (võ sư: Nguyễn Văn Dũng)

Đây là video hướng dẩn tập 5 bài quyền đặc dị đầu tiên, có tên gọi Tewaza.


Thứ Hai, 30 tháng 6, 2014

CLB võ thuật công an Quảng Bình đạt thành tích cao trong giải Võ thuật cổ truyền

Trong chương trình đại hội TDTT tỉnh Quảng Bình lần thứ VII năm 2014, Ngày 29, 30 tháng 6 năm 2014  tại Trung tâm TDTT tỉnh Quảng Bình đã diễn ra các loạt trận thi đấu tranh huy chương Giải Võ thuật cổ truyền. Đại hội TDTT năm nay sở VH,TT&DL tỉnh Quảng Bình lần đầu tiên đưa vào thi đấu môn Võ thuật cổ truyền trong chương trình đại hội TDTT sau 4 năm theo chu kỳ của đại hội đã được sự tán dương, ủng hộ rất cao của giới chuyên môn trong làng Võ thuật cổ truyền và được sự quan tâm sâu sắc của các võ sư liên đoàn võ thuật cổ truyền Việt Nam.
Giải đã cống hiến cho khán giả những trận đấu hay, gay cấn, hấp dẫn, sắc são cả về chất lượng chuyên môn cũng như thể hiện được nét tinh hoa, độc đáo của võ thuật cổ truyền, đã tạo nên được không khí sôi động của giải.

Các đội tuyển tham gia thi đấu

Đội tuyển CLB võ thuật CA tỉnh

Có 7 đơn vị tham gia thi đấu, trong đó có đội tuyển CLB võ thuật công an Quảng Bình. Được biết bộ môn Võ thuật cổ truyền của CLB võ thuật công an Quảng Bình mới được thành lập chưa đầy một năm nhưng được sự quan tâm ưu ái của ban giám đốc, ban huấn luyện CLB đã mạnh dạn đầu tư trang thiết bị tập luyện, khích lệ vận động viên hăng say luyện tập và tham gia thi đấu với tinh thần thượng võ đã mang về thành tích cao cho đội tuyển.
Trong 2 nội dung thi đấu của các hạng cân ( Quyền thuật biểu diễn và đối kháng ) đội tuyển CLB võ thuật công an Quảng Bình đạt được 6 huy chương trong đó; 1 huy chương vàng, 3 huy chương bạc và 2 huy chương đồng.
Sau đây là một số hình ảnh của giải:
So găng

Đấu

Ra đòn

Ra đòn
Chiến thắng

Chiến thắng
Thành tích

Thành tích

Thành tích